• RSS
  • Facebook
  • Twitter
Comments

Báo Infonet.vn - báo điện tử của Bộ Thông tin và Truyền thông vừa đăng bài "Những bức ký họa nước ngoài về quân đội Việt Nam trong kháng chiến", sao lại (có ghi nguồn) bài "Những bức ký họa nước ngoài đi vào mãi mãi" của báo điện tử Giáo dục quốc phòng an ninh. Đây chỉ là một bài báo đơn giản, đăng tải những bức vẽ của họa sỹ Simon McCouaig, nằm trong cuốn "The NVA and Viet Cong" của NXB Osprey, về lực lượng vũ trang Việt Nam trong các cuộc chiến tranh vệ quốc trong thế kỷ 20. Tuy nhiên báo Infonet đã phạm những lỗi sơ đẳng như: Sửa lại tiêu đề bài báo cũ, sửa lại nội dung (từ "Cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước" sang "Các cuộc kháng chiến của người Việt Nam" - dù rằng phần sửa đúng hơn phần nguyên bản).


Nhưng cái sai lớn nhất trong bài viết này là bức ảnh đã được chỉnh sửa lại so với nguyên bản: bức vẽ về người chiến sỹ Cộng hòa miền Nam Việt Nam, thuộc đơn vị tăng 203, trong ngày giải phóng Sài Gòn. Trong nguyên bản, người lính tăng tay cầm cờ của CHMNVN, chân dẫm lên lá cờ vàng 3 sọc của Việt Nam Cộng Hòa nhưng trong bài viết, ai đó đã "hô biến" lá cờ vàng 3 que này đi. Bức vẽ này vốn được phóng tác từ một bức ảnh về một sự kiện có thật trong này 30-04-1975.

Cái sai trái hơn nữa là khi được góp ý trên Facebook về điều này, nhà báo Việt Khanh (hay Khánh) đã "chống chế" rằng: "Xóa đi là đúng rồi, đã đến lúc nêu cao tinh thần đoàn kết dân tộc" (!?) Thật nực cười cho sự ấu trĩ của một người làm báo, mà lại còn trực thuộc bộ Thông tin và Truyền thông! Dạo này, rất nhiều người lấy nghị quyết 36 của bộ Chính trị ra làm bình phong cho hành vi "bắn vào quá khứ" của họ. Họ suy diễn một cách nhố nhăng nghị quyết đúng đắn này để phục vụ cho ý đồ riêng của mình. Nếu suy nghĩ về "tinh thần đoàn kết dân tộc" như kiểu anh nhà báo Việt Khanh (hay Khánh) này thì có lẽ chúng ta nên đập bỏ toàn bộ những nhà bảo tàng tội ác chiến tranh của Mỹ ngụy, xóa tên Nguyễn Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu,... ra khỏi sách lịch sử!
Ngoài ra, tự ý sửa đổi tác phẩm của người khác là một hành vi vi phạm bản quyền, vi phạm đạo đức mà "nhà báo" lại coi nhẹ như không đến thế thì không hiểu cái đạo đức nghề nhà báo đi đâu mất rồi? Thái độ làm báo cho bộ Thông tin và Truyền thông mà như thế ư? Thật đáng buồn!
Ảnh trên báo Infonet.vn và quocphonganninh.edu.vn

Tranh gốc của Simon McCouaig


Bức ảnh tạo cảm hứng cho tranh vẽ

Nhà báo Viet Khanh chống chế trên Facebook
[...]

Comments

Gần đây tôi thấy các bạn "dư luận viên" (*) và "lều báo" đang rao giảng về chủ nghĩa yêu nước về tinh thần dân tộc trên mạng nhiều quá. Họ quả là những người yêu nước, họ yêu nước rất nhiều, yêu nước đến mức phải phát khóc lên mất! Họ bảo họ sẵn sàng hi sinh vì tồ quốc để đánh đuổi Trung Quốc xâm lược, sẵn sàng cầm súng. Quả thật nghe đến đây mà cảm thấy xót xa quá. Tôi không biết ai nghĩ thế nào, nhưng tôi nghĩ có lẽ lòng yêu nước của tôi nó bé nhỏ quá, nó không vĩ đại như các vị anh hùng này đâu. Tôi chỉ nhớ một câu mà đã được học từ hồi bé, một câu nói mà mỗi lần chào cờ tôi đều nhìn thấy: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có thể sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không. Tất cả đều nhờ một phần công học tập của các cháu”. Đấy là hành động thực tế yêu nước nhất nhưng có lẽ đa phần chúng ta đã quên, chúng ta đã không còn nhớ đến nó.


Một ngày chiều tối tháng 6, tôi đi trên đường về, vẫn đi qua con đường Ngọc Hà quen thuộc, đi qua gần lăng Bác Hồ. Và rồi giữa dòng người qua lại trên đường phố, tôi bỗng thấy một cụ già, chắc cũng tầm 80 tuổi đang ngồi ăn xin ở giữa đường. Dòng người vẫn đi qua, cụ già vẫn ngồi ăn xin, dường như ai cũng vội vã và ít có ai chú ý đến sự tồn tại của ông cụ. Cảm thấy có gì đó bất nhẫn và tôi dừng lại, lấy trong ví ra ít tiền lẻ và đưa cho cụ. Thật ngạc nhiên câu đầu tiên tôi nghe được là gì: “Ông cám ơn nhiều lắm, cám ơn thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh nhiều lắm vì đã thương xót ông, ông bị điếc không nghe thấy gì cả đâu”. Nghe đến đây bỗng thấy lòng đau lại, tôi nhớ lại bố mẹ tôi từng kể, thời bao cấp khó khăn thì khó khăn thật nhưng cả đường phố không có lấy một người ăn xin, không trẻ em lang thang, không người già cơ nhỡ, cả phường có khi chỉ có 2 ông công an, cả năm có khi chỉ giải quyết 1 vụ đánh nhau. Một sự thật là như vậy, nhưng vì sao thời bao cấp nó lại yên bình như thế, đó là vì chúng ta được học đạo đức, được học đạo đức thật sự. Cô giáo tôi từng kể, hồi thời của cô, người ta dạy về lòng yêu nước, dạy khác bây giờ nhiều lắm. Họ dạy rằng, yêu nước là gì, là yêu từng nhành cây ngọn cỏ của quê hương, yêu từ cái bàn cái ghê quanh ta, yêu từng người thân yêu quanh ta, yêu những người sống gần ta, yêu bằng một tình yêu chân thành, và tình yêu đó nó không ngừng lớn lên, nó từ yêu cái nhỏ quanh ta cho đến cái lớn, và cứ tiếp tục được trưởng dưỡng cho lớn dần, rồi nó thành tình yêu làng xóm, yêu quê hương, rồi là yêu những người cùng cơ quan, cùng cảnh ngộ, cùng giai cấp, rồi nó thành tình yêu với những người có hoàn cảnh khó khăn, yêu những người gặp bất hạnh, phải có sự đồng cảm với họ. Và khi đó nó lớn lên thì mới thành tình yêu đất nước, thành tình yêu cộng sản lớn lao. Lòng yêu nước là vậy, nó được trưởng dưỡng từ bé đến lớn, nó thực tế lắm chứ không viển vông, không hão huyền như hiện nay.

Ngày nay yêu nước của đội ngũ "dư luận viên" và "lều báo" là gì? Đó là lên mạng chửi Trung Quốc, khen Mỹ đòi liên kết với Phil để đánh Trung Quốc, cầu xin Nhật, Mỹ, Úc lập liên minh đánh Trung Quốc,... Một tình yêu nước mới cảm động làm sao, mới tha thiết làm sao, mới nồng cháy làm sao! Họ thể hiện một tình yêu nước nóng bỏng đến mức có khi gặp những người cùng khổ trên đường, họ thản nhiên quay lưng đi mà không giúp đỡ, họ yêu nước nóng bỏng đến mức họ hỏi nhau làm sao để tránh nghĩa vụ quân sự phường, hay họ yêu nước nóng bỏng đến mức họ không biết công nhân ta sống thế nào, họ không biết nông dân việt Nam giờ ra sao. Tình yêu nước của họ mới lớn lao làm sao! Tình yêu nước là gì khi họ không biết rằng công nhân ngày làm việc 14h đồng hồ và chỉ nhận lương 3 triệu/tháng. Họ yêu nước đến mức họ không biết rằng nông dân thấm đẫm nước mắt nhìn hàng đoàn xe chở nông sản bị tắc nghẽn, không có đầu ra. Họ yêu nước nóng bỏng đến nỗi, họ chửi bới công nhân vì đã bạo loạn đuổi nhà đầu tư nước ngoài đi, họ yêu nước đến nỗi họ chửi bới nông dân vì tin lời thương lái Trung Quốc. Họ yêu nước đến nỗi họ hô hào doanh nghiệp Việt hãy cố lên, hãy đánh bại Trung Quốc trong cuộc chiến kinh tế mà không biết doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn ở đâu, cần giải quyết cái gì. Họ yêu nước thật đó, tình yêu nước của họ nóng bỏng lắm, nó nóng bỏng đến nỗi tôi cảm thấy rằng dường như sức nóng đó có thể thiêu cháy cả biển Đông, thiêu cháy cái giàn khoan HD 981, nhưng sao nó lại lạnh lùng với những người công nhân, người nông dân Việt Nam thế vậy?

Một loại phá nước mạo danh "yêu nước", thích thể hiện đến nỗi khoe cả cái dốt của mình khi đeo băng rôn còn ngược!
Còn nhớ năm xưa khi Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ, cũng như các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước nhưng con đường của Bác khác với các cụ lắm. Nếu như tình yêu nước của các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh dù nóng bỏng nhưng nó còn gắn liền với tư tưởng sĩ phu hẹp hòi, gắn liền với tư tưởng trung quân ái quốc, chỉ nằm trong cái gọi là sĩ phu yêu nước thì tư tưởng của Bác Hồ là tình yêu thương tới từng người dân Việt Nam. Bác xót thương những người nông dân phải chịu sưu cao thuế nặng, bị cướp hết ruộng đất, Bác xót thương cho những người công nhân đang bỏ xác nơi đồn điền cao su, nơi đường ray tàu hỏa, Bác xót thương cho những nhà tư sản, địa chủ yêu nước bị chèn ép, bị thực dân Pháp ép cho tán gia bại sản, Bác xót thương cho những tầng lớp nhân sĩ trí thức yêu nước bị tù đầy, bị xét xử như các cụ Phan Đình Phùng, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám v..v... và trên hết Bác xót thương cho nhân dân Việt Nam trong cảnh lầm than, cảnh nô lệ. Lòng yêu nước của Bác là như vậy, là bắt nguồn từ những điều thực tế nhất và khi Bác ra đi tìm đường cứu nước cũng là thế. Bác đã làm việc, sinh sống tại mẫu quốc, tại châu Âu xa xôi và Bác nhận ra, ở mẫu quốc cũng có những ông cụ ăn mày nhặt rác kiếm sống, cũng có những cô gái điếm đứng đường hàng đêm tại các khu ổ chuột. Từ đó Bác nhận thấy chủ nghĩa tư bản ở đâu cũng như nhau, và Bác tìm được con đường cứu nước là con đường cách mạng vô sản. Tờ báo yêu nước của Bác cũng là tờ báo Người Cùng Khổ, nó không phải là Thanh Niên, là Tiền Phong, là Vietnamnet hay VNExpress, ngay từ cái tên tờ báo đã cho thấy lòng yêu nước trước tiên là sự đồng cảm, sự xót xa đối với những con người Cùng Khổ. Và bài báo Bác viết là gì, đó là bản án chế độ thực dân Pháp là những cái mà bọn thực dân Pháp đang đầu độc những con người bị bóc lột không chỉ tại Việt Nam mà là tại những nước thuộc địa. Bác yêu nước là như vậy đó, có cần đao to búa lớn không, có cần vỗ ngực tự xưng là yêu nước hay không. Đừng biến lòng yêu nước thành sự sĩ diện hão cá nhân viển vông, lòng yêu nước trước hết là từ sự đồng cảm với những số phận cùng khổ. Vấn đề là bè lũ "dư luận viên" và bọn "lều báo" vẫn cho rằng chúng yêu nước mà chúng không hiểu rằng cái đó không phải là yêu nước, cái đó là sự thể hiện hão huyền về tình yêu nước, là sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân, là tính sĩ diện hão, thích thể hiện trước số đông của chúng. Yêu nước xuất phát từ trái tim nóng, từ sự đồng cảm và xót thương, chứ không xuất phát từ cái miệng loa loa nói, từ cái vỗ ngực tự xưng. Muốn yêu nước là phải có một trái tim nóng và cái đầu lạnh.

Tôi không cần các bạn phải yêu nước như Bác Hồ, nhưng trước tiên hãy học yêu nước như tổng thống Nga Pultin, đó là thấy dân Nga khổ mà đau xót, thấy người Nga bị đánh đập mà xót thương, thấy gái Nga phải làm đĩ điếm ở châu Âu mà đau lòng. Đã có ai yêu nước được như vậy chưa? Vâng thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh, câu nói của cụ già ăn mày đó cứ làm tôi thấy đau nhói suốt, thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh còn không, thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh sao không thấy giúp đỡ họ những người có hoàn cảnh khó khăn, sao không thấy lấy chí học hành để đưa đất nước phát triển đi lên? Thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh bây giờ là ngồi nhà, lên facebook, chém gió, chửi bới và yêu nước bằng miệng chăng? Đó không phải là thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh, đó là thanh niên của thế hệ chủ nghĩa cá nhân, là thanh niên hèn mạt. Một người nếu không có lòng đồng cảm, không có cảm xúc, không có sự yêu thương với những gì ngay xung quanh mình thì làm sao có cơ sở để có tình yêu nước được, tất cả chỉ là cái bánh vẽ được vẽ lên rất đẹp nhưng vô dụng mà thôi. Thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh hiện nay hay lắm, tôi từng biết có vị thanh niên đang học tiến sĩ ở Úc, sẵn sàng tuần hành để thể hiện lòng yêu nước ở Úc, ném rác thải vào Đại sứ quán Trung Quốc ở Úc, nhưng khi bảo vị đó về Việt Nam đi, xây dựng đất nước đi, giúp đỡ những người khốn khổ đi thì nhận lại một câu, quốc gia này nhiều vấn nạn lắm, không về được, có về cũng không trọng dụng, ở lại nước ngoài sướng hơn dù anh được đi học bằng tiền thuế của nhân dân đó. Vâng nhục nhã thay cho cái gọi là thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh như vậy. Làm gì có cái gọi là thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh ở những người như vâỵ chứ? Càng nghe mà tôi càng đau xót. Những thanh niên trẻ trâu hiện nay, bè lũ "dư luận viên", bọn phản động tại tờ báo Thanh Niên như Đỗ Hùng, hay bọn nhà báo bất lương như Đoan Trang đang hàng ngày làm nhục cho chữ thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh. Đau buồn cho thế hệ tôi, một thế hệ đang lớn lên, vô cảm, sĩ diện hão và chủ nghĩa cá nhân.

Mượn cảm hứng văn chương trong Hịch Tướng Sĩ của đức thánh Trần Hưng Đạo, tôi bỗng lại muốn viết, muốn nói rằng:
“Ta thường nghe, thanh niên là đừng hỏi Tổ Quốc đã làm gì cho ta, mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ Quốc hay chưa. Hãy nghe lại bài ca thời Thanh Niên Sôi Nổi của Liên Xô mà thấy Thanh niên là phải sống, là phải cống hiến, là phải nhiệt huyết và trên hết là phải yêu thương mọi người, có một tình yêu giai cấp, đất nước bao la. Nay các ngươi, sinh ra tại thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan, ngó thấy bọn doanh nghiệp FDI ngang nhiên đi lại ngoài đường chèn ép doanh nghiệp Việt, bóc lột công nhân Việt mà không biết cay. Bọn Hàn Quốc khinh khi sỉ mắng người Việt Nam mà không biết nhục, đem thân dê chó mà phô diễn văn hóa độc hại phá hoại văn hóa nước nhà mà không biết xót. Thấy lao động Việt Nam phải ra nước ngoài kiếm sống mà bị chủ đánh đập mà không thấy đau, thấy con gái Việt Nam hoặc sang Hàn Quốc lấy chồng để rồi bị đánh đập hay sang Singapore, Thái Lan làm đĩ điếm mà không thấy đau. Nhìn nông dân Việt Nam ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, được mùa vụ mà lại trắng tay vì bị lừa đảo, vì không xuất khẩu được do tình hình bất ổn mà không thấy xót xa. Nông dân Việt Nam, công nhân Việt Nam hàng ngày cố gắng vật lộn cuộc sống tìm đường mà đi không giúp họ. Nhìn thấy nông dân vì bọn đầu tư nước ngoài mà miếng đất cắm dùi cũng mất mà khôn cảm thấy thương. Nhìn công nhân Việt Nam sống ở nơi cùng khổ như ổ chó lợn, ngày làm việc quần quật hàng chục tiếng mà không thấy đau. Thử hỏi lương tâm các ngươi để đâu, lòng yêu nước các người để đâu?

Nhìn xã hội mà vẫn có những cụ già, những em bé không nơi nương tựa, hàng ngày phải đi ăn xin, sống tha phương cầu thực mà không tỏ lòng trắc ẩn. Nay các ngươi, hàng ngày chỉ lo lên mạng xã hội mà chửi bới Trung Quốc, chửi bới giàn khoan HD981, thử hỏi chửi thêm trăm năm nữa cái giàn khoan có sụp đổ hay không, Trung Quốc có tụt hậu hay không mà vẫn đi lên từng ngày. Biến thành quân cờ cho bọn đế quốc Âu Mỹ như kẻ tay sai chống Trung Quốc mà không thấy nhục, tự cho mình là yêu nước như kiểu nhờ Mỹ đánh Trung Quốc mà không hiểu Mỹ đang biến mình thành lũ chó săn. Thanh niên yêu nước Việt Nam sẵn sàng liếm trôn các Oppa Hàn Quốc mà không thấy nhục. Nhục nhã thay bọn "dư luận viên" mồm to, bọn "lều báo" hô hào, bọn thanh niên thờ Oppa liếm đít ngoại bang mà sỉ nhục cha mẹ. Nay các ngươi, không chịu tu chí học hành để giúp đỡ Việt Nam, không chịu tìm cách đóng góp để gỡ nguy cho doanh nghiệp Việt đang vật vã vì khủng hoảng kinh tế, không chịu tìm cách để nâng cao đời sống nông dân, để giúp đỡ công nhân không bị bóc lột, không xây dựng đất nước để lao động Việt Nam có thể kiếm sống trên mảnh đất quê hương không phải tha phương cầu thực, để con gái Việt Nam không phải sang nước khác làm đĩ điếm.

Một lòng chỉ mong kích động chiến tranh bởi sĩ diện hão, bởi chủ nghĩa nhân, mà không biết rằng nếu chiến tranh xảy ra thì sao. Một mai nếu có chiến tranh thì bàn phím cứng không thể đập nát xe tăng địch, màn hình sáng lóa không thể dùng để chiếu mù mắt quân địch, miệng lưỡi hô hào không thể làm địch điếc tai mà chết, chém gió không thể tạo thành giông bão nhấn chìm tàu chiến địch, biểu tình tuần hành đông đảo không thể dẫm chết quân địch. Thao trường không luyện tập sao đòi ra chiến trường để đánh nhau với địch, chỉ sợ lúc vừa nghe tiếng súng đã tim đập chân run đái ra quần mà bỏ chạy. Nay khuyên các ngươi, nếu biết quay đầu thì lấy khí thế đó mà ra sức học hành rèn luyện, tích cực lao động chăm chỉ làm việc, để làm sao xây dựng Việt Nam ngày càng vững mạnh, để làm sao Việt Nam không còn người nghèo khổ, để nông dân Việt Nam vui tươi vì được mùa, để công nhân Việt Nam có được nhà lầu xe hơi mà dùng, để Việt Nam hùng cường, khoa học phát triển, vũ khí hiện đại thì tự khắc còn nước nào dám chèn ép Việt Nam.

Nay các ngươi ngày ngày chửi Bắc Triều Tiên lạc hậu mà không nhìn sang thấy sự quật cường của dân tộc đó, công nghiệp phát triển đi trước Việt Nam gần trăm năm, người Bắc Triều có vũ khí hạt nhân dám đương đầu với Mỹ mà không sợ hãi, người Bắc Triều có tàu điện ngầm mà Việt Nam đến tàu hỏa còn không xong. Người Bắc Triều ko cần dùng Ipad, Iphone mà có thể tự chế điện thoại di động, máy tính bảng để dùng. Người Bắc Triều nghèo hèn hơn Việt Nam mà y tế giáo dục miễn phí, an sinh xã hội rất tốt. Người Bắc Triều nghèo hơn Việt Nam nhưng không thấy có ăn mày, có người lang thang cỡ nhỡ nằm màn trời chiếu đất. Nhìn sang nước Nga quật cường đang từ một nước nhục nhã bị Mỹ chèn ép giờ dám đương đầu với Mỹ, dám lấy lại lãnh thổ của mình đã bị bọn đế quốc chiếm đoạt, dám bảo hộ cho những dân tộc yếu đuối trước Mỹ và cho họ quyền tự quyết dân tộc. Hay nhìn sang ngay chính kẻ thù của chúng ta là người Trung Quốc thì sao? Người Trung Quốc giờ đang từng ngày đi lên, từng ngày thay đổi, đã chế được Tàu vũ trụ bay vào tương lai, đã có thể làm đường sắt cao tốc mà không thua gì chất lượng của Đức, Pháp, đã từ nghèo hèn hơn Việt Nam năm 1979 mà giờ giàu gấp 3 lần Việt Nam, người Trung Quốc cũng đang chuyển mình, đã qua rồi cái thời Âu Mỹ chèn ép họ rằng người Trung Quốc chỉ là giống chó lợn của Âu Mỹ và giờ đây bọn Âu Mỹ còn đang kinh sợ người Trung Quốc, kinh sợ một đế chế Trung Hoa.

Còn người Việt Nam thì sao? Không nói tự các ngươi biết, bọn Hàn Quốc khinh bỉ Việt Nam ra sao, bè lũ Âu Mỹ coi dân Việt Nam là giống mọi rợ, vậy tự tôn ở đâu, lòng yêu nước ở đâu. Nhìn thấy tình cảnh quốc gia như vậy phải biết mà phấn đấu, phải biết mà tự cường, thế hệ Hồ Chí Minh phải là thế hệ thanh niên phải biết dấn thân, phải biết xông pha xây dựng đất nước, hãy làm sao cho Việt Nam trong vòng 10-20 năm nữa chuyển mình, cho người Việt Nam không còn đói khổ, cho nông dân được nhà cửa khang trang, cho công nhân được làm chủ máy móc, cho người lang thang cơ nhỡ có mái nhà để ở, cho người già và trẻ em được bảo vệ, cho con cái hiểu thảo với cha mẹ, đền ơn giáo dưỡng của cha mẹ, cho trẻ em đến trường không cần đóng học phí, cho người bệnh chữa bệnh không tốn tiền y tế. Cho Việt Nam có một nền công nghiệp không thua gì các cường quốc năm châu, cho Việt Nam thật sự hùng cường, để người Việt Nam đi đâu cũng ngẩng cao đầu, không còn phải làm kẻ giúp việc, làm công nhân mạt hạng, làm đĩ điếm nữa, thanh niên các ngươi làm được. Đó mới là thế hệ Hồ Chí Minh đích thực, giờ hãy quay đầu cảnh tình, để mà xây dựng lại thế hệ Hồ Chí Minh đi, đó là lời khuyên chân thành nhật.”.

Một thế hệ Việt Nam đang cần phải thay đổi và phải học lại về lòng yêu nước chân chính đích thực, hãy nhớ những lời Bác Hồ dặn ghi sâu trong tim: “Dân tộc Việt Nam có thể sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, đó là một phần nhờ công học tập của các cháu.”./.

Hà Nội, ngày 19 tháng 6 năm 2014
TTCS (**)

(Tiếng nói của giai cấp vô sản và nhân dân lao động Việt Nam).

Chú thích của blog Đôi Mắt:

(*) Có thể quan niệm "dư luận viên" của tác giả khác với những suy nghĩ thông thường. "Dư luận viên" đối với tác giả là những kẻ chỉ thích hô hào, thể hiện "lòng yêu nước" trên mạng ảo bằng những lời lẽ đao to búa lớn, phi thực tế, nhằm mục đích thể hiện cái tôi của mình, thậm chí kéo bè kết cánh để tạo "chiến tranh bàn phím" với bất kỳ ai không đồng quan điểm.
(**) Tác giả gửi bài trực tiếp cho Doi-Mat.vn.
[...]

Categories:
Comments

Cứ mỗi khi đất nước có biến cố, ta lại thấy đám “đục nước béo cò”, "kền kèn ăn xác thối" nổi lên như nấm mọc sau mưa. Cùng với sự kiện Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, chúng ta thấy nổi cộm những vấn đề sau:


1. Đối với truyền thông chống cộng như RFA, BBC, VOA hay một số blog "rận chủ" thi nhau bới lông tìm vết để mong chứng minh cho được là "cộng sản hèn yếu". Họ tìm mọi cách "đâm bị thóc chọc bị gạo" gây nhiễu loạn thông tin, kích động dân chúng trong nước chống lại chính quyền nhằm thừa nước đục thả câu cho mưu đồ của họ.

2. Đối với truyền thông trong nước thì tha hồ đem những thông tin giật gân gây nhiễu loạn "câu viu", không nghĩ tới những hậu quả khôn lường. Một số bài báo đăng tin kiểu như chiến tranh sắp xảy ra (tung tin Trung Quốc báo động chiến đấu cấp 3 ở biên giới). Một số bài báo đăng những thông tin kiểu kích động thù hằn dân tộc giữa ta và Trung Quốc và hậu quả đó nó cũng dẫn tới các doanh nghiệp TQ và cả người Hoa bị đánh chết có sự góp tay không nhỏ cho những tờ báo này. Một số tờ báo có xu hướng xét lại, được dịp đăng bài, phỏng vấn mớm cung các vị lãnh đạo lão thành nhằm tìm chính danh cho chế độ VNCH đã bị nhân dân ta đánh đổ gần 40 năm nay. Họ lôi công văn của cụ Đồng ra để bàn tán nhưng khổ nỗi lại "lợn lành chữa thành lợn què", thậm chí họ cố tình xuyên tạc công văn của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng. Họ ra sức định hướng dư luận rằng chúng ta phải thân Mỹ, thân Phương Tây thì mới giữ được chủ quyền, có bài báo còn đăng bài hàm ý rằng chế độ cộng sản này cần phải xóa bỏ thì người Mỹ người Tây mới giúp chúng ta... Nói chung là cổ súy cho tư tưởng bài Hoa nhưng lại lăn sả vào ôm chân Mỹ, tức là "đuổi cọp cửa trước, rước sói cửa sau".

3. Một số cộng đồng hải ngoại, tàn dư của chế độ cũ thì được sức hả hê. Họ nghĩ rằng "cộng sản Tàu" sẽ dạy "cộng sản VN" một bài học. Nhóm khủng bố Việt Tân được dịp tung tin xuyên tạc về tình hình trong nước, kích động nhân dân biểu tình đập phá các doanh nghiệp, gieo rắc bạo loạn nhằm mong lật đổ chế độ.

4. Những kẻ chống đối trong nước nhân danh “đấu tranh dân chủ” thì tâm trạng chung cũng được sức hả hê, kiểu như “cầu được ước thấy”, thằng anh đã dạy thẳng em bài học, những điều chúng tiên đoán là “chuẩn mực”,…. Chúng cho thời cơ ngàn năm đã đến, hô hào dân chúng xuống đường biểu tình xuyên tạc nói xấu nhà nước hèn với giặc ác với dân, cần phải thay đổi thể chế, trả tự do cho những kẻ chống phá nhà nước, xây dựng đất nước theo “dân chủ nhân quyền” phương Tây…

Qua đó cho chúng ta thấy gì...? Họ là người Việt Nam nhưng họ luôn xuyên tạc về tình hình đất nước nhất là lúc dầu sôi lửa bỏng như thể này để từ đó họ chống cộng sản. Họ luôn mong quân đội ngoại bang xâm lược, chiếm đóng đất nước họ để lật đổ chính quyền mà họ thù ghét, và tất nhiên cũng để họ có cơ hội chia sẻ miếng bánh chính trị bằng cách bán thân xác và linh hồn cho ngoại bang. Nghe tin quê hương bị xâm lăng là lòng họ như mở cờ, họ vui như trẩy hội, vì có thêm 1 vụ để chửi cộng sản. Họ chỉ mong có ngày quân giặc chiến thắng để họ theo đóm ăn tàn. Họ mạo nhận là những nhân vật đang "đấu tranh nhân quyền", là những "nhà dân chủ", "nhà hoạt động dân chủ", "hoạt động nhân quyền”mà quậy phá đất nước, nhận tiền của nước ngoài, thông đồng với ngoại bang, toa rập với các thế lực bên ngoài, mưu đồ bất chính, dụng ý thiếu lương thiện, ý đồ phản loạn.

Nhìn lại bối cảnh năm 1979, 1988 tới nay chúng ta thấy cũng giống như vậy. Năm 79 chúng ta phải đánh bắc dẹp nam, lưỡng đầu thọ địch. Lúc đó những kẻ một thời theo giặc kiếm ăn đang yên ổn tại hải ngoại thay vì lo lắng và góp sức cho tổ quốc thì lại sung sướng khi Trung Quốc "dạy cho Việt Nam một bài học". Một số tổ chức khủng bố còn lợi dụng tình hình đất nước khó khăn liền đem súng đạn vào đất nước âm mưu bạo loạn lật đổ. Xin nêu ra 3 minh chứng:

1) Hoạt động xâm nhập VN của Võ Đại Tôn (Chí nguyện đoàn phục Quốc 1978 – 1981), phù hợp với thời gian xảy ra chiến tranh biên giới;

2) Hoàng Cơ Minh tổ chức Chiến dịch Đông tiến II, 1987 xẩy ra đồng thời với việc TQ chuẩn bị tổng lực để đánh Trường Sa và

3) Theo Nguyễn Toàn (tạp chí hải ngoại: Văn Nghệ Tiền Phong, số 303, tháng 9/1988) thì nhóm Thái Quang Trung đã nhận sự trợ giúp của Tầu Cộng để xây dựng căn cứ Bukdahan (Thái Lan)..
Còn trong nước lúc đó không ít tàn dư của chế độ cũ sợ khó khăn gian khổ chiến tranh tìm cách vượt biên ra nước ngoài tìm chân trời mới bỏ lại đất nước đang rên siết dưới những vết thương chiến tranh chưa bao giờ lành lặn.

Hệ thống báo chí ngày nay, trừ một số tờ báo có tính chiến đấu cao như báo Nhân dân, báo Quân đội nhân dân, thì hầu hết còn lại các báo lung lay niềm tin đòi nhà nước phải ngả theo phe này phe kia. Tuy chưa đến nỗi như năm 79 nhưng những hiện tượng này nếu không có phương án quản lý chặt chẽ thì rất có thể chúng ta sẽ có một nền báo chí chạy theo giặc.

Tóm lại, để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam chỉ có thể và luôn luôn bằng máu của người Việt Nam. Và chỉ có Quân đội Nhân dân Việt Nam dưới sự tổ chức, chỉ huy, lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm chiến tranh của Đảng CSVN mới đủ sức đương đầu và đánh thắng kẻ thù xâm lược. Không có một liên minh nào, hiệp ước nào, một quốc gia nào…có thể bảo vệ được độc lập, toàn vẹn chủ quyền của Việt Nam ngoài chính bản lĩnh, trí tuệ và máu của người Việt Nam. Ông cha ta xưa, bằng sức mạnh dân tộc, đã từng một mình, đơn độc chống lại bọn phong kiến phương Bắc xâm lược đông mạnh, hết triều đại này đến triều đại khác để lại những chiến công hiển hách và các giá trị to lớn khác, thì ngày nay, sức mạnh dân tộc đó, kết với sức mạnh thời đại, sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, thì Việt Nam không ngán ngại bất cứ kẻ thù nào. Nhưng trước khi đánh thắng ngoại xâm thì chúng ta phải biết dẹp yên nội loạn, cần phải xử lý nghiêm những kẻ cơ hội, đục nước béo cò, tay sai ngoại bang, thúc đẩy nội lực và đoàn kết dân tộc mới mong thắng lợi vẻ vang.
[...]

Categories: ,
Comments

Nhật báo Tuổi trẻ từ ngày 18/4/2014 đăng liền bốn số bài “Thưở ban đầu của chữ Quốc ngữ”, kể kỳ công của nhà truyền đạo Ki-tô A-lịch-sơn Đắc-lộ (Alexandre de Rhode) sáng chế ra chữ Việt ký âm theo mẫu tự Latin còn gọi là chữ Quốc ngữ. Chuyện không có gì mới ngoài mục đích nhằm gợi ý hãy “làm cái gì đó” như dựng tượng ông Đắc Lộ ở một nơi nào để người Việt tỏ lòng ghi nhớ mãi công ơn của người đại diện cho mẫu quốc Phú-lang-sa và giáo hội Ki-tô đã khai hóa cho dân tộc này bằng một bảo bối diệu kỳ!
"Giấc mơ" về tượng Đắc Lộ đã có từ lâu nay...

Có mấy điều cần nói rõ:
Một là: Nhà báo viết: “Mãi gần đây nhà nghiên cứu Nguyễn Phước Tương cho rằng Đắc-Lộ không phải là người có công đầu trong việc tạo tác chữ Quốc ngữ”. Sự thật thế nào? Mời bạn đọc tham khảo một đoạn hồi ký của nhà hoạt động văn hóa-xã hội Nguyễn Hữu Đang:
“Trước Cách mạng Tháng Tám, ở sau đền Bà Kiệu, xế cửa đền Ngọc Sơn, vẫn có một khoảng đất rộng độ ba trăm mét vuông, ở giữa dựng tấm bia đá ghi công tích Alexandre de Rhodes, một giáo sỹ Pháp sang truyền đạo ở nước ta vào những năm 1624-1645, được một dư luận mơ hồ coi là người đã sáng tạo ra chữ Quốc ngữ. Dư luận ấy càng hay được nhắc lại trong giáo hội và giáo dân như một niềm tự hào song song với niềm tự hào Giáo hoàng Grégoire đã đặt ra dương lịch! Lợi dụng cái nhầm lẫn của những người không hiểu biết về một sự kiện lịch sử, thực dân Pháp dựng đài kỷ niệm ông ta với dụng ý gây uy tín cho chủ nghĩa đế quốc Pháp, chứng minh cụ thể “công ơn” của nước Đại Pháp đã “khai hóa” dân tộc Việt Nam lạc hậu! Dĩ nhiên trong lễ khánh thành bia tưởng niệm phải có kẻ tung người hứng. Kẻ tung có nhiệt tình đã được chọn là giám mục địa phận Hà Nội. Kẻ hứng có thẩm quyền nhất phải là ông Nguyễn Văn Tố, nhà cổ học nổi tiếng, Hội trưởng Hội truyền bá Quốc ngữ đang được cả nước hoan nghênh. Bởi vậy Ban tổ chức mời Hội dự lễ khánh thành với yêu cầu nội dung gồm hai tiết mục:
1. Ông Nguyễn Văn Tố đọc một bài phát biểu chứng nhận giá trị khoa học và ý nghĩa lịch sử sự nghiệp của Alexandre de Rhodes, cả hai mặt đều đã được thổi phồng trong bài diễn văn đọc trước.
2. Học viên của Hội ở thủ đô, tiêu biểu cho phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ sẽ đến đông đủ, hoan hô và diễu hành.
Hội không có lý do gì chính đáng để từ chối. Ban trị sự và anh chị em trong các ban chuyên môn đều lo ngại Hội sẽ bị lợi dụng trắng trợn. Riêng ông Hội trưởng cứ ung dung nhận lời sau khi đã trấn an mọi người bằng một câu nói vui: “Các ngài cứ yên tâm, Hội trưởng ra ngoài không đến nỗi kém cỏi, khờ dại lắm đâu, sẽ biết múa võ không hở sườn. Xin hứa giữ toàn vẹn cả danh dự Hội lẫn danh dự cá nhân”.
Giữ ra sao? Ông dặn Ban dạy học chỉ dẫn độ năm sáu chục học viên nhỏ tuổi, đứng im lặng, hễ ông đọc xong bài phát biểu là tự động giải tán ra về. Một giáo viên sẽ đến phân trần với Ban tổ chức là học viên người lớn của Hội ban ngày bận đi làm, chỉ có một số ít học viên nhỏ này rỗi phần nào là đi dự được. Họ đứng lâu sốt ruột lại thiếu ý thức trật tự, khuôn phép nên tự động bỏ về, chúng tôi bực mình nhưng cũng đỡ lo vì nếu họ diễu hành, đi gần đài bia tưởng niệm và các quan khách mà có cử chỉ, ngôn ngữ thiếu lễ độ, tôn kính thì tai hại.
Còn bài phát biểu của ông Hội trưởng thì bằng những dẫn chứng cụ thể và biện luận chặt chẽ, ông chỉ ra rằng chính các giáo sỹ Tây-ban-nha (Spaint) và Bồ-đào-nha (Portugal) đã đến xứ này từ lâu trước Alexandre de Rhodes và họ mới là người đầu tiên dùng chữ cái Latin phiên âm tiếng Việt, sáng tạo hệ thống gần hoàn chỉnh chữ Quốc ngữ hiện ta đang dùng. Sau đó, Alexandre de Rhodes mới góp phần mình bằng những cố gắng qui tắc hóa và đem phổ biến hạn chế trong việc dịch kinh bổn và biên soạn tài liệu cho giáo hội. Ông ta đáng khen ở chỗ thừa kế các bậc tiền bối mà có bổ sung trong chi tiết. Những người nghe ông nói hoặc đọc bài phát biểu đăng trên một tờ báo Pháp ra ngày hôm sau đều thấy rõ ông đã vạch trần âm mưu xuyên tạc lịch sử để tuyên truyền lừa bịp của bọn thực dân”.
Ai cũng biết vào nửa đầu thế kỷ XX, trong giới văn nhân văn hóa nước nhà nổi danh tứ kiệt “Quỳnh-Vĩnh-Tố-Tốn”, trong đó vị Viện trưởng Viễn đông bác cổ – học giả Nguyễn Văn Tố là người cốt cách, tự tin, mềm dẻo, uyên bác mà khiêm tốn, khí tiết vững vàng và sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được bàu làm Trưởng Ban thường trực Quốc hội khóa đầu tiên của chính thể cộng hòa-dân chủ Việt Nam.

Hai là: Sự phát triển của đạo Ki-tô về phía Đông gắn liền với quá trình mở mang việc khai thác tài nguyên và thị trường giao lưu hàng hóa của chủ nghĩa tư bản phương tây. Giáo hoàng Alexander VI tự cho Ki-tô giáo cái quyền thống trị hoàn cầu, đã chia thế giới ra làm hai vùng ảnh hưởng: Toàn thể Mỹ châu (trừ Ba-tây=Brazil) là thuộc Tây-ban-nha (Spain=Espagne). Còn Bồ-đào-nha (Portugal) thì được xứ Ba-tây (Brazil) và tất cả đất đai nào chiếm được ở châu Á, châu Phi. Vua Pháp Francis I bất bình, phản ứng ra lời: “Ai có thể chỉ cho ta thấy di chúc của ông tổ Adam giao tất cả thế giới cho Bồ-đào-nha và Tây-ban-nha”? Cùng với sắc lệnh phân chia vùng ảnh hưởng kèm theo điều quy định: “Song song với việc chiếm cứ đất đai là bổn phận phải kết hợp các dân địa phương vào trong giáo hội Ki-tô”. Do đó, đi cùng với đoàn quân xâm lược là những linh mục (sách Missionaries). Bất kể sự diễn tiến như thế nào, kết quả đều giống nhau: “Những dân tộc Á châu mất đi hoặc một phần, hoặc toàn phần sự tự do của họ, bất cứ khi nào và ở nơi nào mà cái Thánh giá cùng cái mũ Tây phương xuất hiện” (Avro Mahattan – Chủ nghĩa đế quốc của Ki-tô giáo và sự tự do của thế giới). Giáo hội được tín đồ. Thực dân được thuộc địa. Ngay từ buổi đầu, hai chủ thể ấy cố kết chặt chẽ với nhau cùng tồn tại và bành trướng.

Alexandre de Rhodes (1593-1660), người Pháp, là giáo sỹ thừa sai của giáo đoàn hải ngoại Pháp sang mở mang nước Chúa ở phía Đông. Ông đến xứ này khoảng những năm 1620. Sau 20 năm truyền đạo, ông gửi về một bản phúc trình mô tả rất chính xác về tiềm năng thương mại, chính trị và chiến lược… La-mã và Ba-lê xem những hoạt động này như những bước khởi đầu không thể tách rời khỏi sự dẫn đến việc chiếm đóng về chính trị và quân sự trên các quốc gia này. Lúc đầu, dù ở đâu, các giáo sỹ đều được dân chúng cảm mến và nhà cầm quyền địa phương ưu ái. Nhưng sau đó, những việc làm của họ kích động dân chúng, gây bất an cho xã hội, bị dân chúng tẩy chay và giới cầm quyền không chứa chấp thậm chí phản ứng tới mức cực đoan quá khích. Cha Đắc-lộ không là ngoại lệ. Là bầy tôi của Chúa, giáo sỹ thừa sai De Rhodes vác cây thánh giá Thầy tới kiệt cùng trái đất nhưng vẫn không quên mình là con cháu của ông tổ Gaulois. Ông qua La mã xin Đức Giáo hoàng huỷ bỏ đặc ân Chúa cho Bồ-đào-nha đất Á Châu. Không được chấp nhận, ông về nước vận động giới giáo sỹ, thương nhân và Pháp hoàng Louis IV cung cấp những chiến sỹ đi chinh phục toàn cõi Đông phương giàu tiềm năng này. Vào thời điểm ấy, do nhiều hạn chế lịch sử, ý đồ của người con nước Pháp đã dâng mình cho Chúa ấy chưa nhận được sự hưởng ứng rộng rãi nhưng nó đã mở đường cho đế quốc Pháp xâm lược nước ta hơn 200 năm sau đó. Ông đúng là mẫu người cần cho nước Pháp như hoàng đế Napoléon I từng nói thẳng ra: “Áo nhà tu che chở và giúp họ che đậy được mục đích chính trị và thương mại. Họ chẳng mang một danh nghĩa chính thức nào mà lại tốn kém ít và được người bản xứ kính nể. Họ không thể làm chính quyền phải liên lụy hay bị sỉ nhục. Lòng nhiệt thành về tôn giáo khích lệ các tu sĩ làm việc và mạo hiểm hơn cả một viên chức dân sự nhiều”.
 
Bà con ta nghĩ sao từ chỗ Nhà nước bảo hộ chỉ dựng bia đá ghi công tích một công dân chính quốc vác cây thánh giá Thầy trong công vụ đi mở mang nước Chúa và giúp nước mẹ xâm chiếm thuộc địa thì những người vong quốc đổ biết bao máu xương hàng trăm năm mới phục sinh được Tổ quốc của mình, nay con cháu những người nô lệ lại bàn nhau bày chuyện tạc tượng ghi ơn?!

Ba là: Chữ viết đóng góp phần quyết định vào nền văn minh của một dân tộc bởi nó là điều kiện tiên quyết để xây dựng nền giáo dục quốc gia bảo tồn văn hiến. Vì thế các chính quyền ngoại bang thống trị luôn tìm cách huỷ diệt nền văn minh bản địa và quyết liệt đồng hoá người bản xứ. Chữ viết là đối tượng bị huỷ diệt trước tiên bởi nó phản ánh tư tưởng, tâm hồn của một dân tộc.
 
Gần đây một số ý kiến cho rằng người Việt đã có chữ viết riêng theo mẫu tự tượng thanh từ rất sớm gọi là chữ Việt cổ. Với những chứng lý mơ hồ chưa thuyết phục nên người ta cứ tin theo sách sử truyền rằng: “Sỹ Nhiếp đã mang chữ Hán về khai hoá cho dân tộc Nam man”. Thực ra “ngu dân” là chính sách nhất quán của chính quyền ngoại bang đô hộ mọi thời. Cần thiết chúng chỉ dạy cho người bản xứ ít chữ đủ dùng làm thư lại tay sai. Nhưng yêu cầu được mở mang trí tuệ là khát vọng của những người có học giác ngộ luôn có ý chí phục hồi tổ quốc, phục sinh dân tộc. Từ đấy tạo ra một lớp trí thức tài hoa uyên bác ngoài ý đồ của giới cầm quyền. Tất nhiên nền văn hóa Đại Hán không thể không có ảnh hưởng sâu sắc trong việc hình thành nhân cách và tư tưởng người Lạc Việt.
Tuy nhiên với khát vọng độc lập tự do thôi thúc, lớp nho sỹ tiến bộ bản xứ chế tác ra thứ chữ Hán-Nôm hợp với thổ âm của người Việt và chỉ qua mấy thế kỷ, chữ Nôm đã có những thành tựu rực rỡ, làm nên nền văn hoá Việt Nam trung cận đại với bản sắc riêng. Chính Toàn quyền Pasquier, đứng ở góc độ văn hóa đã thừa nhận: “Các tác phẩm văn học Việt Nam, dù đậm nét dân gian hay có giá trị đỉnh cao của Nho học là một kho tàng văn hóa độc đáo, phi thường” và khuyến cáo các đồng sự cực đoan: “Ta không nên phá hoại bất cứ thứ gì trong tòa lâu đài văn hóa cổ xưa này. Nếu ta làm mất đi trong quên lãng, thử hỏi đó có là trọng tội?”.

Sự ra đời của chữ Quốc ngữ là quá trình lâu dài khởi từ các linh mục người phương tây đồng thời là những nhà ngôn ngữ học giỏi giang, kế tục nhau dày công nghiên cứu, lại được sự hưởng ứng tận tình của nhiều tầng lớp người bản xứ đã sáng chế ra một dạng chữ đơn giản và dễ phổ cập là chữ Quốc ngữ ta dùng hiện nay. R.Jacques đề nghị: “Cần thiết phải đặt đúng vị trí việc làm của cá nhân Alexandre de Rhodes trong một công trình tập thể mà ông chỉ là một trong số nghệ nhân cư yếu, trong đó người Bồ-đào-nha và những người cạnh tranh ngang hàng Việt Nam của họ đã giữ vai trò hàng đầu”. Dù sao thì việc chuyển hóa hoàn tất một ngôn ngữ Á đông từ ký tự tượng hình sang ký tự tượng thanh trước hết để các nhà truyền giáo dễ học một ngôn ngữ mới, làm phương tiện tác nghiệp, dễ dàng thâm nhập với cộng đồng thổ dân, lâu dài hơn là phục vụ cho âm mưu thôn tính một xứ sở xa lạ.

Bốn là: Trên thế giới này, các dạng chữ viết đều theo hai qui tắc: Hoặc theo dòng tượng thanh như chữ Latin, chữ Slavơ. Hoặc theo dòng tượng hình như chữ Ai-cập, chữ Hán. Mỗi vùng miền có những đặc thù riêng về địa lý, lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa và cách phát âm. Trên đường tiến sang phía Đông, buổi đầu các giáo sỹ phương tây đã tạo ra một dạng chữ Nhật mới (romaji) theo mẫu tự Latin. Trước sự phản ứng quyết liệt thậm chí là cực đoan quá khích của giới cầm quyền thời Mạc Cửu, dưới sức mạnh của Thần đạo (Shinto) lại được các “samurai” dẫn dắt, con chữ ấy bị đánh bật ra khỏi đất Phù Tang! Chữ Nhật truyền thống vẫn tồn tại cùng với nền tảng văn hóa Nhật để có một nước Nhật hiện nay ở “top” đầu thế giới. Trái lại khi tới Việt Nam đúng lúc chủ nghĩa phong kiến suy vi bạc nhược, cuộc Thập tự chinh mà các giáo sỹ thừa sai phương Tây đi tiên phong đã là những người có công đầu cho chủ nghĩa thực dân Pháp biến nước ta thành thuộc địa đồng thời với việc mở mang nước Chúa!
Nhìn sang các nước Á Đông, quốc gia nào chữ viết không bị đồng hóa thì nước Chúa khó được mở mang trong khi các lĩnh vực văn hóa, khoa học, xã hội vẫn bắt nhịp với đà tiến hóa chung của loài người.
 
Năm là: Khi đặt được nền móng vững chắc cho sự cai trị, thực dân Pháp thẳng tay bức tử chữ Hán-Nôm truyền thống! Sự chống trả của giới sỹ phu bản xứ không lại được trước áp lực của chính quyền thực dân nắm trong tay cả một guồng máy khổng lồ quân sự, chính trị, kinh tế, giáo dục, khoa hoc kỹ thuật, tổ chức xã hội… Giám mục Puiginier nói đặc giọng của một trùm thực dân: “Không đồng hóa chủng tộc được thì phải đồng hóa trước là ngôn ngữ và sau là văn hoá để lập nên một nước Pháp nhỏ ở Viễn Đông”. Ý đồ ấy lại được lớp người Việt vong bản tiêu biểu là Jean Baptiste Trương Vĩnh Ký ngoài sứ vụ bầy tôi của Chúa lại mang phẩm trật Đại quan Cơ mật viện Nam triều, ông ta còn là quan chức mẫn cán của Nhà nước bảo hộ Đại Pháp, đã không ngần ngại bày tỏ hết ruột gan ra trong thư gửi cho Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ để xin tiền ra sách: “Muốn chứng tỏ với qúy vị rằng trong 13 cuốn sách đã xuất bản, tôi chưa bao giờ đi lệch mục tiêu chính và trực tiếp là sự biến đổi và đồng hóa dân tộc An Nam.

Ý đồ hủy diệt một nền văn hóa lâu đời của một dân tộc ở phương Đông không dễ được thực hiện. Trước hết nó gặp sự bất hợp tác của người bản địa là lẽ đương nhiên. Chữ Quốc ngữ ra đời vào giữa thế kỷ XVII, hầu như chỉ lưu hành hạn hẹp trong giáo hội Ki-tô. Nửa sau thế kỷ XIX, khi người Pháp hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam, họ có ý định dùng chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán-Nôm thì ngay trong giới cầm quyền thuộc địa cũng có những phản ứng gay gắt. Với kinh nghiệm của một quan chức thực dân đồng thời cũng là nhà văn hóa, Toàn quyền Pasquier nhắc nhở đồng sự: “Hãy tìm cách thích nghi, hòa nhập, chứ không phải hủy hoại, sao cho trong một thế kỷ tới người Pháp sẽ không phải chuốc lấy những lời trách cứ nặng nề rằng: Dưới chế độ tập quyền nghiệt ngã, những bản sắc đặc thù của một đất nước xa xôi đã bị tàn phá”! Nhưng bản chất của chủ nghĩa thực dân chỉ cần sự chiếm đóng, khuất phục và lợi nhuận. Văn hoá nếu có, chỉ duy nhất một nền văn hóa chính thống mẫu quốc mà tinh hoa của nó là tinh thần “Tự do-Bình đẳng-Bác ái” không bao giờ được xuất khẩu sang thuộc địa.

Sáu là: Đến đầu thế kỷ XX, chính quyền thuộc địa lập một Ban cải tiến chữ Quốc ngữ gồm nhiều học giả người Pháp và người Việt. Chữ Quốc ngữ được cởi trói và các thể loại văn học mới lần lượt ra đời nhưng vẫn không nhận được sự hưởng ứng mặn mà cả trong giới nho sỹ và giới bình dân.
 
Phải đến khi nhân dân ta giành được quyền làm chủ vận mệnh quốc gia thì ý thức cần được khai thông trí tuệ mới trỗi dậy mạnh mẽ. Giữa lúc quốc gia nguy biến, Cụ Hồ – vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam độc lập vẫn sáng suốt đặt ra ba yêu cầu bức bách mang tính sống còn là: “Diệt giặc đói – Diệt giặc dốt – Diệt giặc ngoại xâm”! Giặc nào cũng làm cho mất nước. Chữ Quốc ngữ được mạnh dạn cải tiến trên cơ sở tiếng Việt là thứ tiếng thống nhất trong cả nước nên việc phổ cập rất nhanh. Từ sự khắc nghiệt của lịch sử đã luyện cho người Việt có biệt tài “trong cái khó ló ra cái khôn”, biến cái không thuận lợi thành ra thuận lợi. Chỉ trong một thời gian ngắn, những người trí thức tâm huyết vẫn giữ được truyền thống văn hóa cổ truyền và tiếp thu tinh hoa nền văn hóa mới Hy-La, quảng bá chữ Quốc ngữ để mau nâng cao dân trí. Các nhà văn hóa của nước Việt Nam mới đã chế ra cách phát âm các từ theo đúng âm ngữ người Việt: a, bờ (b), cờ (c), dờ (d), đờ (đ), gờ (g), nhờ (nh), ngờ (ng), khờ (kh), thờ (th)… mà những ông tây thứ thiệt rất khó học nhưng những người bình dân Việt Nam cảm thấy rất dễ nhận diện, ghép vần, nhập tâm. Cũng nhờ đấy mà chữ Quốc ngữ được phổ cập nhanh chóng. Sau khi đuổi được giặc Pháp, năm 1960, “Hội nghị cải tiến chữ Quốc ngữ” lại được tổ chức tại Hà Nội. Chữ Quốc ngữ được nâng cấp, phát triển toàn diện, đáp ứng được trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội từ sinh hoạt, tình cảm, trí tuệ, tâm linh tới các bộ môn khoa học xã hội và tự nhiên hiện đại rất phức tạp, là ngôn ngữ chính thống giảng dạy trong các trường từ mầm non đến đại học. Cụ Hồ và những lãnh tụ cách mạng đồng thời là những nhà văn hóa lớn rất quan tâm và nêu gương trong việc làm trong sáng tiếng Việt ta cả trong cách nói và cách viết.

Vĩ thanh:
Người ta ngoa ngôn rằng: “Khi cho Việt Nam các mẫu tự Latin, Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến ba thế kỷ”? Nhưng có ai nghĩ rằng sự mất đi ngôn ngữ Hán-Nôm không khỏi kéo theo hệ quả là những bản sắc đặc thù của một dân tộc có truyền thống văn hiến lâu đời đã bị tàn phá?
Một nhà giáo dục học người Pháp có lương tâm ở Việt Nam – ông G.Dumoutier, từng trăn trở: “Nếu những đứa trẻ An Nam xuất thân từ các trường học của ta (Pháp), mà không biết đọc và viết chữ Hán-Nôm thông dụng, thì chúng sẽ trở thành người ngoại quốc trên chính đất nước của chúng”! Đó là lời cảnh báo nghiêm khắc mà đến bây giờ dường như nó đang lộ diện!

Trải hàng trăm năm phát triển đại trà, xem ra đã có ai dùng chữ Quốc ngữ vượt qua các bậc tiền nhân với chữ Hán-Nôm mà đạt tới đỉnh cao tư duy và mỹ cảm như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Công Trứ, Bà Huyện Thanh quan, Hồ Xuân Hương…? Nhà Quốc ngữ tiên phong Nguyễn Văn Vĩnh từng nói: “Kể những sách của những bậc tài Nôm nước Nam để lại mà làm nền cho quốc văn thì thực hiếm, nhưng tuy hiếm mà thực là qúy, thực là hay. Như văn Kim-Vân-Kiều mà đem vào kho tàng văn chương thế giới kể cũng xứng, chớ không đến nỗi để người An Nam mình phải hổ thẹn rằng nước không có văn”.

Ngay từ buổi đầu một nhà văn hóa Pháp có lời cảnh báo như là tiên tri: “Sự hủy bỏ nền giáo dục Hán-Nôm đồng nghĩa với sự hủy bỏ về giáo huấn đạo lý mà chúng ta sẽ không có gì để thay thế vào bộ môn đạo đức đã bị tiêu diệt này… Đối với học sinh An Nam, mỗi chữ viết (Hán-Nôm) đều chứa đựng ý nghĩa sâu rộng, khi đọc hoặc viết, chúng tiếp nhận được một cảm xúc mạnh. Còn sách vở của ta, họ tiếp nhận với một tâm trạng khác hẳn. Đó là những tập tục của một xã hội khác biệt với họ, các thầy giáo cũng khác ông thầy đồ – người mà họ coi có thể thay thế cha mẹ của họ”. Bây giờ, trải hàng trăm năm chữ Quốc ngữ phát triển đại trà, trong cộng đồng nảy ra những con người chẳng giống ai và chính những con người ấy có những hành xử kỳ quái từ trong gia đình tới ngoài xã hội. Và trong lĩnh vực văn chương cũng từ những con người ấy nảy sinh ra những loại truyện, thơ cách tân, hiện đại, hậu hiện đại để nảy nòi ra những “Bóng đè” và đám nặc nô “Mở miệng” được Nhã Thuyên và Nguyễn Thị Bình cùng đủ hàng chức sắc thầy bà đang kẻ tung người hứng! Con chữ vấy bẩn lên văn chương hay là văn chương làm nhơ nhuốc những con chữ? Dù sao thì với ai lòng những thẹn với lòng!

Ngày nay khi phân tích lý giải về các vấn đề xã hội người ta thường đưa ra những yếu tố kinh tế, chính trị để giải thích sự biến động của tình cảm, đạo đức, nhân tâm… chưa hẳn đã là đầy đủ!

Tuy nhiên, thời nay chỉ người điên mới đòi bỏ đi chữ Quốc ngữ. Nhưng nếu xếp xó lại chữ Hán-Nôm coi như đồ bỏ, khác chi để mất một báu vật gia truyền?! Giống như con rắn thần mù không biết trên đầu mình có viên ngọc quý. “Tổ quốc ta là rắn khác gì đâu!” (R.Tagor). Tại sao sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, trong chương trình cải cách giáo dục của nhà nước Việt Nam độc lập, học sinh hệ Đệ nhị cấp (tương đương Trung học cơ sở hiện nay) mỗi tuần vẫn được học vài giờ chữ Hán-Nôm. Bây giờ ta luôn nói coi trọng bản sắc văn hóa dân tộc mà trong chương trình giáo dục từ Cấp Hai, các nhà cải cách không thể mạnh dạn bỏ đi những tiết học vô bổ hoặc cắt xén những chương trình lê thê đặng thêm vào vài tiết học chữ Hán-Nôm cho lớp trẻ? Đó chẳng phải là một cách làm mạo hiểm hao công tốn của như đã từng diễn ra từ các chương trình thử nghiệm cải cách giáo dục bấy lâu nay. Ít ra thì cũng tránh được cái họa viết những câu văn vô nghĩa, ngớ ngẩn, bất thành cú… của không ít học sinh cuối cấp phổ thông, là bước chuẩn bị cho lớp cháu con tiếp cận với nguồn cội văn hóa dân tộc. Bởi nó rất hợp lẽ tự nhiên giống như “cây thuốc phương Nam trị người nước Nam” mà cha ông ta đã làm và rất thành công.


Thành phố HỒ CHÍ MINH ngày 30/4/2014
Nguyễn Văn Thịnh
(tác giả riêng gửi Doi-Mat.vn)
[...]

Categories: ,
Comments

Dư luận mấy bữa rày đang "bất ngờ", "choáng váng" trước một bài báo có tựa đề "Chàng trai tự sát vì bạn gái... quá xấu so với trên mạng" đăng trên hàng loạt báo mạng như: phunutoday, Người đưa tin, Vnexpress, 24h,... Nội dung của bài báo nói về anh chàng có tên Mark Anthony Perez (tờ thì nói người Philippine, tờ thì nói người Singapore), đã nhảy từ lầu 4 của một trung tâm thương mại tại Singapore xuống và chết chỉ vì người con gái mà anh ta yêu qua mạng khi gặp ngoài đời đã xấu hơn kỳ vọng.

Nhưng chắc độc giả sẽ còn ngỡ ngàng hơn nếu biết rằng thực chất đây là một câu chuyện đã xảy ra từ đầu năm 2013 và được "truyền thông" xào nấu lại, cho người chết "đặc ân" được chết thêm một lần nữa. Tin này đã được đưa trên các diễn đàn như documentingreality, goregrish, zoklet.netFacebook ở Philippine, Indo từ tháng 02/2013. Theo đó, anh chàng này tự tử  tại trung tâm thương mại SM City Fairview (Philippine) vì bị ... bạn trai bỏ (!).

Đây chỉ là một ví dụ trong vô số các ví dụ chứng minh rằng trong thời đại thông tin ngày nay, chúng ta đang bị giới truyền thông vô trách nhiệm, dối trá xỏ mũi dắt đi như thế nào. Đây chỉ là những tin tức vô thưởng vô phạt nhưng đối với các thông tin về chính trị, lịch sử,.. (như trường hợp Hoàng Sa) thì có thể để lại những hậu quả khôn lường.

CÁC HÌNH ẢNH TRÊN CÁC DIỄN ĐÀN TỪ THÁNG 02/2013

BÀI XÀO NẤU - BỊA ĐẶT TRÊN CÁC BÁO

[...]